Mẹ: Phế phi Doãn thị (廢妃尹氏; 폐비윤씨), người Hàm An. Khi Yên Sơn quân tính hành cuộc thanh trừng nhân sĩ năm 1504, ông đã truy phong mẹ mình làm Tề Hiến vương hậu (齊獻王后). Về sau phong vị này bị phế trừ đi.
Thục nghi họ Doãn (淑儀尹氏), người Hải Bình, con gái Doãn Huyên (尹萱) và Diên An Toàn thị (延安金氏). Nhập cung năm thứ 7 đời Yên Sơn Quân, anh trai Doãn Ân Phụ (尹殷輔) làm Lãnh nghị chính thời Trung Tông.
Thục nghi họ Quách (淑儀權氏), người Huyền Phong, con gái Quách Lâm (郭璘) và An Đông Quyền thị (安東權氏). Từ thời Thành Tông đã vào hầu Yên Sơn quân khi ấy đang là Thế tử, chức vị Lương đệ. Sau khi Yên Sơn quân bị phế, bà xuất gia làm ni sư.
Thục dung Trương Lục Thủy (張綠水), xuất thân là ca kỹ, sau được Yên Sơn Quân sủng ái, sách phong Thục viên, sau thăng Thục dung, thuộc hàng Tam phẩm. Sau khi Yên Sơn Quân bị phế truất, bà bị phế truất và xử tử.
Thục dung Điền Phi (田非), sau khi Yên Sơn Quân bị phế truất, bà bị phế truất và xử tử.
Phế Huy Thận công chúa (廢徽慎公主), tên Lý Thọ Ức (李壽億), mẹ là Phế Vương phi họ Thận. Lấy Cụ Văn Cảnh (具文璟). Sau khi Trung Tông phản chính, bị phế làm thứ nhân.